Làm quan Nạp_Lan_Minh_Châu

Những năm Thuận Trị, ông nhậm Thị vệ, Loan Nghi vệ Trì nghi chính (銮仪卫治仪正), sau lại điều làm Nội vụ phủ Lang trung[3].

Năm Khang Hi thứ 3 (1664), ông được thăng làm Nội vụ phủ Tổng quản Đại thần.

Năm thứ 5 (1666), ông đỗ Tiến sĩ, nhậm Hoằng Văn viện Học sĩ, được tham dự quốc chính[3].

Năm thứ 6 (1667), chính thức thiết lập Thực lục quán, ông đảm nhiệm vị trí Phó Tổng tài biên soạn Thế tổ Chương Hoàng đế Thực lục[4].

Năm thứ 7 (1668), nhậm Hình bộ Thượng thư.

Năm thứ 9 (1670), ông được chuyển sang làm Đô Sát viện Tả đô Ngự sử (左都御史).

Năm thứ 10 (1671), tháng 2, nhậm Kinh diên Giảng quan (经筵讲官)[5].

Năm thứ 11 (1672), ông được phong làm Binh bộ Thượng thư kiêm Văn Hoa điện Đại học sĩ (文花殿大学士). Cùng năm này, ông cùng với Mễ Tư Hàn, Mạc Lạc, Trần Đình Tính ủng hộ chủ trương triệt phiên nhưng bị Khang Hi Đế từ chối.

Năm thứ 14 (1675), nhậm Lại bộ Thượng thư[4].

Năm thứ 16 (1677), nhậm Võ Anh điện Đại học sĩ (武英殿大学士), gia hàm Thái tử Thái sư (太子太师).

Năm thứ 21 (1682), ông đảm nhiệm Giám tu Tổng tài quan, chịu trách nhiệm toản tu Minh sử[6]. Cùng năm, ông tiếp tục nhậm Tổng tài quan, chịu trách nhiệm trọng tu Thái Tổ Thái Tông thực lục và biên soạn Thánh huấn[Chú 1] của ba triều (Thái Tổ, Thái Tông, Thế Tổ)[7], nhậm Phương lược Tổng tài quan chịu trách nhiệm biên soạn "Bình định Tam nghịch".

Wikisource tiếng Việt có toàn văn tác phẩm về:
[[:s::zh:欽定大清會典|Đại thanh Hội điển, nguyên bản tiếng Trung]]

Năm thứ 23 (1684), nhậm Tổng tài quan biên soạn Đại thanh Hội điển[8].

Năm thứ 24 (1685), ông tiếp tục chịu trách nhiệm biên soạn Chính trị Điển huấn (政治典训)[9].

Năm thứ 25 (1686), chịu trách nhiệm biên soạn Nhất thống chí (大清一统志)[10], ông được ban hàm Thái tử Thái sư[4].

Năm thứ 28 (1689), ông chủ trương thu phục Đài Loan và được Khang Hi giao trọng trách chiến lược bình Đài cùng với Diêu Khải Thánh, Thi Lang, Lý Quang Địa.

Năm thứ 29 (1690), ông chịu trách nhiệm Tham tán Quân vụ[11].

Năm thứ 33 (1694), ông được phong hàm Thái tử Thái bảo, tập Nhất đẳng công, uy vọng của ông lúc bấy giờ có thể nói là cao trong triều, ngang hàng với Sách Ngạch Đồ.

Năm thứ 40 (1701), ông bị Lý Quang Địa vạch tội nhận hối lộ. Sau đó, ông bị bắt và tước hết mọi chức vụ tước vị, bị giam trong ngục cho đến chết. Khi biết tin ông qua đời, Khang Hi Đế phái Hoàng tam tử Dận Chỉ đến tế điện.

Dưới thời Khang Hi, ông và Sách Ngạch Đồ đều có xuất thân cao quý từ Mãn Châu Chính Hoàng kỳ và uy vọng gia tộc của cả hai người cũng vô cùng hiển hách, nên ông và Sách Ngạch Đồ thường hay tranh đấu trong triều. Vì thế Sách Ngạch Đồ và Nạp Lan Minh Châu có vị thế ngang bằng nhau, chèn ép lẫn nhau, bách tính Bắc Kinh vì thế chế ra ca dao: "Trời muốn bình, giết Lão Minh; trời muốn an, giết Sách Tam". Sử sách ghi rằng ông ngoài mặt là người khiêm tốn, nhưng lại lợi dụng sự tín nhiệm của Khang Hi Đế mà độc tài triều chính, tham tài nhận hối lộ, bán quan bán tước, do đó sau này ông không còn được Khang Hi Đế trọng dụng nữa.